Wednesday, February 8, 2012

VIỆT NAM VÀ HOA KỲ CÙNG LÀ “NGƯỜI THÂN”?

Trong thời gian hơn hai mươi năm đất nước Việt Nam bị chia cắt vì hai chủ thuyết tư bản và cộng sản. Từ năm 1954 đến năm 1975, miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản độc đảng chuyên chế dưới sư trợ giúp tối đa của cường quốc cộng sản Liên Xô với sức mạnh vũ khí và của Trung Cộng với sức mạnh nhân số, miền Nam được chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang chế độ Cộng Hòa pháp trị.

Ngay tại thời điểm năm 1954, lực lượng quân đội tại miền Bắc đã rất đông với hàng trăm ngàn quân lính (240.000 lính chính qui và hơn một triệu quân bán chính qui)* và được hai nước cộng sản lãnh đạo đàn anh, Liên Xô và Trung Quốc, cung cấp đầy đủ về các mặt quân cụ, hậu cần và kinh tế để tiến hành cuộc chiến chinh phục Miền Nam, chủ tâm thực hiện chế độ cộng sản chuyên chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam bằng vũ lực, trong đại kế hoạch nhuộm đỏ toàn thế giới của cộng sản quốc tế.

Trong khi đó miền Nam Việt Nam vừa bắt đầu xây dựng một thể chế tự do dân chủ theo phương cách của các chế độ tư sản và đa đảng trên thế giới, chỉ có một lực lượng quân đội non trẻ và đượcHoa Kỳ trợ giúp nhằm khả dĩ có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ nền cộng hòa. Thời gian miền Nam được sống thực sự trong hòa bình để xây dựng đất nước thật rất ngắn ngủi và có thể nói rằng không có được bao nhiêu ngày, nhưng phải lập tức hứng chịu cuộc chiến tranh quốc cộng đẫm máu. Để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á và Châu Á, Hoa Kỳ đã chủ động giúp đỡ miền Nam Việt Nam về quân sự và kinh tế để có đủ khả năng chống lại lực lượng quân đội chính qui hùng hậu xâm nhập từ miền Bắc Việt Nam và lực lượng du kíchcài lại tại Miền Nam.

Thay vì để cho hai miền Nam-Bắc cùng sống chung và phát triển trong hoà bình, thành phần lãnh đạo đảng Cộng Sản tại miền Bắc đã quyết tâm sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả sinh mạng của toàndân, cùng với sự chu cấp không giới hạn toàn bộ vũ khí, quân dụng và hậu cần từ khối cộng sản toàn cầu mà chính yếu từ Liên Xô và Trung Cộng, để đánh chiếm toàn Miền Nam.Trong tình trạng đó, miền Nam phải chống đỡ một cuộc chiến không cân sức.

Trợ giúp của Hoa Kỳ và quốc tế càng lúc càng giảm, và cuối cùng thì bị cắt đứt toàn bộ. Hoa Kỳ phải chấm dứt thamchiến và ngưng viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam do áp lực của các thế lực thiên cộng và phản chiến mù quáng tại Mỹ và các nước. Cuộc nội chiến không cânsức Bắc Nam đã chấm dứt với thắng lợi đương nhiên của chế độ cộng sản tại Miền Bắc.

Tài liệu tiết lộ gần đây cho biết sau khi đã thương lượng và tái lập được bang giao với Bắc kinh, Mỹ đã thoả thuận ngầm với Trung Cộng rời bỏ Miền Nam Việt để được lợi ích nhiều hơn về cả sự hợp tác kinh tế với Bắc Kinh và sách lược đối đầu với khối cộng sản Liên Xô.

Trong thời gian 1954 -1975 Hoa Kỳ đã viện trợ cho Miền Nam Việt Nam tổng cộng khoảng 26 tỷ USD, trong đó viện trợ quân sự 16 tỷ USD, viện trợ kinh tế khoảng 6 Tỷ USD.

Tổng số chi phí cho cuộc chiến tại Việt Nam mà Hoa Kỳ phải gánh chịu lên đến hơn 900 tỷ USD, gấp hơn 3lần so với chi phí của Hoa Kỳ cho thế chiến thứ 2. Chi phí của các nước trong khối cộng sản cũng rất cao, tuy họ không chính thức công bố nhưng cũng lên đến hằng trăm tỷ USD.**

Về sinh mạng: Riêng Việt Nam, tổng số thương vong lên đến gần 6 triệu người, khoảng 1/8 dân số của hai Miền Nam Bắc Việt Nam tại thời điểm năm 1975 (năm 1954: 24 triệu, 1975: 49 triệu), có khoảng 1 triệu 500 ngàn quân nhân Việt Nam của hai phía bị tử trận và hơn 4 triệu thượng dân bị chết hoặc bị thương; trong đó miền Bắc: 1,1 triệu quân nhân bị tử trận và mất tích, 600.000 quân nhân bị thưong, và khoảng 2 triêu thường dân chết và bị thương; miền Nam: 320,000 quân nhân tử trận và mất tích, 1,2 triệu quân nhân bị thương, và 2 triệu thường dân chết và bị thương.

Các lực lượng quân đội nước ngoài tham chiến tại Việt Nam bị tổn thất cao nhất là Hoa Kỳ với 58.200 quân nhân tử trận,1900 mất tích, và khoảng 300.000 quân nhân bị thương; kế đến Nam Hàn với 5.000 quân nhân tử trận, 11.000 bị thương; Phi Luật Tân với 552 quân nhân tửtrận; Úc với 426 quân nhân tử trận và 1360 bị thương; Thái Lan với 351 quân nhân tử trận và 1200 bị thương;Tân Tây Lan với 55 quân nhân tử trận và 212 bị thương. Trong khối cộng sản tham chiến tại Việt Nam có Trung Cộng, Liên Xô, Bắc Hàn, các nước cộng sản tại Đông Âu với số tử trận và thương vong tuy không được công bố chính thức nhưng cũng đáng kể, nhất là Trung Quốc và Liên Xô.**

Hoa Kỳ là nước trực tiếp tham chiến cùng với quân đội và dân chúng miền Nam Việt Nam và là quốc gia bị thiệt hại về nhân mạng cao nhất ngoài Việt Nam. Không chỉ với 58.200 quân nhân tửtrận mà nó liên hệ đến gần 5 triệu lượt thanh niên trong lứa tuổi 20 - 40 đã trực tiếp chiến đấu trong tổng số hơn 6 triệu người Mỹ tham gia chung vào cuộc chiến ngăn chặn chế độ cộng sản bành trướng tại Miền Nam Việt Nam. Như vậy có thể nói rằng từ 5 đến 6 triệu gia đình người Mỹ đã trực tiếp liên hệ đến Việt Nam, một đất nước trước đó thật xa lạ đối với đa số người dân Mỹ bình thường.

Sau 37 năm tính từ năm 1975, con số khoảng 6 triệu gia đình người Mỹ có liên hệ trực tiếp (có người thân chiến đấu, hy sinh và bị thương vong hay có liên hệ gia đình vợ chồng) và có nhiều kỷniệm với Việt Nam. Bên cạnh đó là khoảng hơn 1.5 triệu người Việt và gia đình họ đã phải rời khỏi Việt Nam đến lánh nạn và lập nghiệp tại quốc gia này sinh sản thêm. Nếu chỉ nhân 2 hay 3 (số 7 hay 8 triệu người này lập gia đình và sinh sản thêm trong thời gian 37 năm) thì đến hôm nay con số người tại Mỹ có mối liên hệ tình thân và tình thâm “ruột thịt” trực tiếp với Việt Nam có thể lênđến con số khoảng từ 10 đến 15 triệu người, trong tổng số khoảng 300 triệu người dân Hoa Kỳ.

Hiện nay, với khoảng 15 triệu dân Mỹ chính thống và người tỵ nạn Việt Nam tại Mỹ cùng với con cháu Mỹ-Việt của họ sẵn có mối tình thân, tình thâm “ruột thịt” với 85 triệu dân Việt của nước ViệtNam, có thể kết luận rằng: Việt Nam và Hoa Kỳ cùng là “người thân”! Đây là một mối thâm tình “ruột thịt” đặc biệt có được giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ.Trong số những quân nhân và chuyên viên trẻ Hoa Kỳ đã từng sát cánh chiến đấu với quân đội Miền Nam Việt Nam cách đây hơn 30 năm, nhiều vị đang nắm giữ các chức vụ và công tác quan trọng trong quân đội và các bang ngành dân sự. Họ hầu hết có cảm tình đặc biệt với dân chúng Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa).

Với bản chất “nhiễu điều phủ lấy giá gương” ngàn đời cùa người dân Việt, một khi ai đó trong gia đình gặp khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần thì chính những người thân “ruột thịt” sẽ là người đầu tiên đứng ra hết lòng giúp đỡ, bảo vệ cho người thân của mình. Vì tình thân, tình thâm “ruột thịt” mà trong hơn ba mươi năm qua người Việt tại nước ngoài đã liên tục chia sẻ chắt chiu và cưumang người thân nghèo khổ của mình tại trong nước mỗi năm với số tiền hằng chục tỷ USD, tuy rằng trước kia họ đã từng bị đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam ngược đãi, bị tước đoạt tài sản, bị xua đuổi khỏi quê hương, và phải chịu nhiều tan thương và chết chóc lên đến cả triệu người trên con đường vượt biển vượt biên tỵ nạn tìm tự do.

Cho đến hôm nay, sự đùm bọc trong tình thâm “ruột thịt” giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ tài chánh có tính cách cá nhân vì bức tường ý thức hệ ngoại lai “cộng sản” dochính chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam dựng ra.

Khi điều kiện tự do và dân chủ tại Việt Nam được phục hồi đầy đủ thì làm sao khoảng 10-15 triệu thân nhân “ruột thịt” người Mỹ và chừng 3 triệu người Việt tại Hoa Kỳ cùng khoảng 2 triệungười Việt Nam và thân nhân “ruột thịt” tại các nước tự do khác như Canada, Anh, Úc, Pháp, Đức,Tân Tây Lan... không cùng 85 triệu dân Việt trong nước chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam trước nguy cơ xâm lược từ kẻ thù phương Bắc? Những dấu hiệu và hành động phát xuất từ nhân dân và chánh quyền Hoa Kỳ với Việt Nam trong thời gian gần đây trước những hành động xâm lược trắng trợn của bá quyền Trung Cộng đã một phần minh xác mối thâm tình “ruộtthịt” này.***

Do đó chỉ có một con đường duy nhất là chế độ chính trị hiện nay tại Việt Nam phải nhanh chóng được thay đồi từ một chế độ cộng sản chuyên quyền độc tài đảng trị sang một chế độ thật sự tựdo dân chủ, đa nguyên đa đảng, trong đó mọi đảng phái chính trị, mọi người dân đều được đối xử bình đẳng không phân biệt quá khứ hay chính kiến. Khi đó guồng máy điều hành quốc gia mới đuợc chính trực, quốc nạn bè phái lộng quyền, kiêu binh bất trị của đảng viên đảng cộng sản Việt Nam hiện nay mới bị tiêu diệt tậngốc.****

Có như vậy thì mối tình thân và thâm tình “ruột thịt” giữa người Việt Nam trong và ngoài nước, tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, mới đượcphát huy và tận dụng. Và khi đó đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mới nhanh chóng được hoàn toàn tự do, kinh tế được phát triển thực sự và nhanhchóng, và ý đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, Trung Cộng, mới bị triệt tiêu.

Ngày 04 tháng 02 năm 2012
Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Ngô Khoa BáPosted

ARE THERE EMOTIONAL AND FAMILY TIES BETWEEN VIETNAM AND THE UNITED STATES?

From 1954 to 1975, Vietnam was partitioned into North and South along ideological differences. North Vietnam was ruled by a totalitarian communist regime firmly supported by a militarily strong Soviet Union and a populous Red China. South Vietnam adopted a Western-styledrepublic.

Right from the start, in 1954 North Vietnam had a large army with 240,000 regulars and more than one million militiamen, equipped, trained, and buttressed by the two leading countries of the communist world--the Soviet Union and Red China, with an express aim to conquermilitarily South Vietnam, as part of an overarching plan to stain and taint the world red with Communism.

Meanwhile South Vietnam's republican government presided over a nascent army equipped and trained by the United States. The peace enjoyed by the people in South Vietnam after the partition was brief. Soon the people found themselves sucked into a civil war initiated by North Vietnam.

In order to stop the spread of Communism in Southeast Asia, the UnitedStates gave military and economic assistance to South Vietnam in its fight against the divisions of the regular army of North Vietnam sent to the south and against the guerrillas put in place by North Vietnam.The civil war was never between the forces of equal strength. North Vietnam enjoyed unstinted and committed support from the communist world while the assistance provided by the United States and its allies was hampered by pro-communist and misguided anti-war elements . Not long after the U.S. Congress had voted to discontinue aid to South Vietnam, the war ended with the triumph of the Vietnamese communists.

Recent disclosures (see Henry Kissinger's On China, Penguin Press, 2011) have indicated that the U.S. was willing to leave Vietnam as part of the secret negotiations to establish diplomatic relations with China for establishing trade between the two countries and for forming a quasi-alliance to stop the expansionist policies of the Soviet Union.

The following figures are some of the economic and human costs of the war:

The monetary aid provided to South Vietnam by the United States during the war amounted to 26 billion dollars, including $16 billion for military and $6 billion for economic assistance.

The total war costs for the U.S. came up to $900 billion, three times of its expenditures in World War Two. There were no published figures from the communist side, but estimates ranged in hundreds of billions of U.S. dollars.

The human casualties were simply staggering:

Vietnam: of course, bore the heaviest casualties. Out of the total population of 24 million in 1954 and 49 million in 1975,almost 6 million (1,500,000 military personnel and 4,500,000 civilians) weredead or wounded – 1/8 of Vietnam’s population in 1975.
North Vietnam:1,100,000 military personnel dead or missing, 600,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam: 320,000 military personnel dead or missing, 1,200,000 military personnel wounded, 2,000,000 civilians dead or wounded.
South Vietnam's Allies:
The United States: 58,200 dead, 1,900 missing, 300,000 wounded.
South Korea: 5,000 dead, 11,000 wounded.
The Philippines: 552 dead.
Australia: 426 dead, 1360 wounded.
Thailand: 351 dead, 1,200 wounded.
New Zealand: 55 dead, 212 wounded.

Once again, there were no figures available for human casualties for North Vietnam's communist allies : The Soviet Union, China, The Eastern European countries, North Korea, Cuba..., specially The Soviet Union and China.

Next to Vietnam, the United States was the country most impacted by the Vietnam War. Besides the 58,200 dead, 1,900 missing, and 300,000 wounded, it was estimated that up to 5 million Americans of the ages between 20-40 did the active military services among about 6 million personnel served their tour of duty in Vietnam during the war. Thus, this could be stated that about 6 million American families did have direct connections with Vietnam, a country at that time they knew very little about.

Thirty-seven years after the war ended, these 6 million Americans and the 1.5 million Vietnamese who fled Vietnam and settled in the U.S. have probably multiplied to 10-15 million strong out of the total population of 313 million. It is not far-fetched to assume most of these 10-15 million people regard Vietnam with nostalgia and the 85 million Vietnamese living in Vietnam with affection. Among those, a number of them are holding positions of authority in the armed forces and federal government (for instance, Senators John McCain, John Kerry, Congressman Chris Smith,..).

The Vietnamese have a tradition of taking care of their kin and kind, no matter how far away they are. The Vietnamese-Americans have upheld that tradition. Every year they have remitted tens of billions of $U.S. dollars to help their relatives and friends in Vietnam despite of the fact that they had been severely mistreated by the Vietnamese Communist Party and its government , stripped off their assets, expelled from their homes and persecuted to the point millions of them had to flee Vietnam by walking across land to reach Thailand, and taking to sea in small and unseaworthy boats to seek freedom, resulting in more than a million of them perished at sea or atthe hands of the Thai pirates.

Up to now, the tie between Vietnam and the U.S. is mostly based on individual blood ties and emotional attachment. The totalitarian, single party, corrupt, nepotism-laden, communist system of government in Vietnam has prevented the tie from deepening and flourishing.

Once Vietnam restores full democracy, there is no reason why those 15 million strong American “relatives” together with more than 3 million Vietnamese expatriates in the U.S. and other countries such as Canada, France, Germany, Australia, and New Zealand and their host sympathizers will have no compelling reasons to rebuild Vietnam and assist in its fight tothwart China's efforts to take over Vietnam! The recent signs and activities from the American people (statement of Senator John McCain in his visit to Vietnam on 19 Jan 2012) and authorities (Assistant U.S. State Secretary Kurk Campell’s visit to Vietnam on 02 Feb 2012 as well as pronouncement of U.S. State Secretary Hilary Clinton and the despatch of US naval vessels into South China Sea before) in response to China’s actions in South China Sea show this “family tie” sentiment.

The only route Vietnam must take is to transform itself into a multi-party system democracy with due respect to freedom and basic human rights.
Only then, corruptions, abuses of power by public figures and factionalism which are rampant within the Vietnamese Communist Party are stamped out.
Only then, the strong “emotional and family ties” between Americans, as well as other nationals, and the Vietnamese from inside Vietnam and all over the world will be fully enhanced and utilized.
Only then, Vietnam will be free, its economy thriving, its people prosperous, and China’s territorial expansionist ambitions against Vietnam will be stopped.

February 04, 2012
Hung Nguyen, Quang Long Le, Khoa Ba Ngo

Thursday, January 26, 2012

Reminding letter to Google about the border line and the East Sea

January 20, 2012

Google Inc.
1600 Amphitheatre ParkwayMountain View,
CA 94043

Attn:Dr. Eric E. Schmidt, Chairman
Mr. John Hanke, Director of Google Earth & Maps
c/o: Kate Hurowitz , Manager, Global Communications & Public Affairs

Re: The discrepancies of the border lines between Vietnam and China, and the maps of South China Sea shown on http://maps.google.com and http://ditu.google.com

Dear Dr. Schmidt and Mr. Hanke:
On 20 October 2011 we sent to you a letter to alert you about the discrepancies between the maps of South China Sea, and on 24 October 2011 we sent to you another letter raising our concerns of the other discrepancies between the maps in http://maps.google.com and in http://ditu.google.com with regard to Vietnam-China land border along Lao Cai City of Vietnam which you informed us back in August 2010 that the error had been fixed.

For three months since the time we emailed our letters to you we have not received your responses about our concerns. As of today we still note these discrepancies still exist on both Google’s official Google Maps web sites stated above.

We really would appreciate it very much if you would look into this matter with a sense of urgency and have the discrepancies resolved in a very short time possible.

We and our fellow Vietnamese from all over the world are anxiously waiting for your reply.

Thank you very much for your consideration. Yours sincerely,On behalf of concerned Vietnamese.

Khoa Ba Ngo, Hung Nguyen, Quang Long Le,

Attachments:
*Copies of two letters dated 20 and 24 October 2011
*Copy of the replying letter of Ms Kate Hurowitz Manager, Global Communications & Public Affairs , dated 02 August 2010.

Thư gởi Google nhắc nhở về những bất nhất trong bản đồ biên giới đất liền và Biển Đông

January 20, 2012
Google Inc.
1600 Amphitheatre Parkway
Mountain View, CA 94043

Attn:
Dr. Eric E. Schmidt, Chairman
Mr. John Hanke, Director of Google Earth & Maps

c/o: Kate Hurowitz , Manager, Global Communications & Public Affairs

Đề mục: Những bất nhất của đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, và bản đồ Biển Đông trong trang mạng http://maps.google.com và http://ditu.google.com
Thưa Dr. Schmidt và Ông Hanke:
Ngày 20/10/2011 chúng tôi gởi đến ông bức thư trình bày những sự khác biệt giữa bản đồ vùng Biển Đông, và ngày 24/10/2011 chúng tôi gởi đến ông một bức thư khác nêu ra mối quan tâm về những bất nhất giữa các bản đồ trong trang mạng http://maps.google.com và http://ditu.google.com liên quan đến đường biên giới đất liền vùng thành phố Lào Cai của Việt Nam mà ông đã thông báo cho chúng tôi vào tháng Tám 2010 rằng những sai sót này đã được chỉnh sửa.

Thời gian đã 3 tháng từ ngày chúng tôi gởi điện thư đến ông, chúng tôi chưa nhận được hồi âm của ông về những quan tâm của chúng tôi. Ngay ngày hôm nay chúng tôi vẫn thấy những bất nhất này còn tồn tại trên hai trang mạng Google Maps chính thức nêu trên của Google.

Chúng tôi xin rất trân trọng nếu ông cứu xét vấn đề này trong tinh thần khẩn trương và giãi quyết những bất nhất này trong một thời gian sớm nhất có thể.

Chúng tôi và đồng bào Việt Nam trên toàn thế giới đang nóng lòng chờ thư trả lời của ông.
Xin cám ơn ông rất nhiều.
Trân trọng,
Thay mặt người Việt quan tâm
Nguyễn Hùng, Ngô Khoa Bá, Lê Quang Long

Đính kèm:
*Bản sao 2 bức thư gởi ngày 20/10/20111 và 24/10/2011
*Bản sao bức thư phúc đáp của Công Ty Google gởi ngày 02/08/2010

Sunday, January 22, 2012

NHÌN MIẾN ĐIỆN, NGÓ LẠI VIỆT NAM

Trong thời gian qua tình hình chính trị Miến Điện thay đổi với tốc độ chóng mặt do chánh phủ Miến Điện của Tổng Thống Thien Sein thực hiện trên con đường dân chủ hóa:
Ngày 30/09/2011 chính thức ngừng xây dựng đập thủy điện khổng lồ Myitsone trên dòng song huyết mạch Irrawaddy do Trung Quốc đứng ra xây dựng, đã từng bị dân Miến Điện phản đối kịch liệt từ những năm qua.

Ngày 12/10/2011, lần đầu tiên thả 120 tù nhân chính trị trong số hơn sáu ngàn tù nhân được thả. Lãnh đạo đối lập, bà Aung San Sui Kyi, sau hơn 20 năm bị tù đày quản thúc được trả tự do hoàn toàn và sẽ tham gia vào chính sự của Miến Điện.

Ngày 24/11/2011 Quốc Hội Miến Điện thông qua luật biểu tình cho phép người dân biểu tình trong ôn hòa.

Ngày 25/11/2011 đảng đối lập tại Miến Điện, đảng Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ do bà Aung San Sui Kyi lãnh đạo, chính thức được phép hoạt động. Bà Aung San Sui Kyi sẽ ra ứng cử trong kỳ bầu cử Quốc Hội bổ sung.

Ngày 30/11/2011 Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, thăm Miến Điện nhằm mục đích kích động thêm cho công cuộc cải tổ và dân chủ hóa tại Miện Điện và chuần bị cho việc bình thường bang giao giữa Hoa Kỳ và Miến Điện. Bà Clinton ngoài việc tiếp xúc và bàn thảo với chính quyền Miến Điện cũng thăm viếng một số nhân vật bất đồng chính kiến. đối lập, trong đó có bà Aung San Sui Kyi.

Ngày 03/12/2011 chính quyền Miến Điện chính thức ký lệnh đình chiến với các tổ chức võ trang kháng chiến dân tộc thiểu số, và khởi đầu việc thương thảo hòa giãi.

Ngày 11/12/2011 Miến Điện chính thức bải bỏ kiểm duyệt báo chí. Chế độ kiểm duyệt của Miến Điện vẫn được xem là một trong những chế độ hà khắc nhất thế giới.

Ngày 25/12/2011, Ngoại Trường Nhật, Koichiro Genba, chính thức viếng thăm Miến Điện cũng nhằm khuyến khích tiến trình dân chủ đang xảy ra taị Miến Điện.

Ngày 05/01/2012 Ngoại Trưởng Anh, Willian Hague, chính thức thăm Miến Điện ủng hộ chính phủ Miến Điện đang tiến hành thực hiện dân chủ hóa.

Ngày 09/01/2012, Chính phủ Úc bắt đấu tháo gở các biện pháp trừng phạt đã áp đặt đối với Miến Điện trong nhiều thập niên qua.

Ngày 13/01/2012, chính phủ Miến Điện tiếp tục trả tự do không điều kiện cho 651 nhân vật bất đồng chính kiến, tù nhân chính trị, mà trong số này có những vị lãnh đạo phong trào đối lập như cựu thủ tướng Miến Điện ông Khin Nyunt, Min Ko Naing người sáng lập ra phong trào mang tên “Thế Hệ 88”, 3 nhà bào thuộc nhóm Democratic Voice of Burma…

Ngày 13/01/2012, để đáp ứng hành động tích cực của chính phủ Miến Điện đã trả tự do hầu như toàn bộ những nhân vật lãnh đạo các tổ chức đối lập đã bị cầm tù trong nhiều thập niên qua bỡi các lãnh đạo chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện trong nhiều thập niên qua, chính phủ Hoa Kỳ chính thức nối lại bang giao với Miến Điện trên cấp bậc đại sứ. Đây là hành động nối lại bang giao nhanh chóng kỷ lục giữa bất kỳ hai quốc gia nào trên thế giới.

Ngày 15/01/21012, Ngoại Trưởng Pháp, Alain Juppé, trong khi đang viếng thăm Miến Điện, tuyên bố Liên Hiệp Âu Châu sẽ nhanh chóng đáp lại tích cực và cụ thể đối với những cải tổ chính trị, phục hồi tự do dân chủ đang xảy ra tại Miến Điện.
]
Ngày 16/01/2012, Chủ Tịch Hạ Viện Quốc Hội Miến Điện, trong buổi lễ trao thưởng Huân Chương Bắc Đẩu Bội Tinh cho bà Aung San Suu Kyi, đã chính thức tuyên bố: “Dân Chủ hóa là con đường duy nhất” đất nước Miến Điện kiên quyết thực hiện.

Như vậy là tương tự như những gì đã từng xảy ra tại các nước cộng sản tại Âu Châu vào thập niên 1980 mà không ai nghĩ có thể xảy ra và cáo chung chế độ chuyên chính cộng sản tại chính đất nước sản sinh ra nó, việc tương tự lại vừa xảy ra tại Miến Điện. Chỉ trong một thời gian 4 tháng ngắn ngủi (từ tháng 9/2011 đến 01/2012) đất nước này, từng bị cai trị liên tục hơn 50 năm bởi một chế độ độc tài quân phiệt chuyên chế sắt máu và cũng là đồng minh thân thiết của Trung Quốc, đã nhanh chóng thực hiện dân chủ hóa và chấp nhận đa nguyên. Hành động thức thời yêu nước của cấp lãnh đạo hiện nay tại Miến Điện đang nhận được nhiều cảm kích, hoan nghênh và khích lệ của cộng đồng thế giới.

Nhìn những gì giới lãnh đạo Miến Điện hiện nay vừa làm cho đất nước và nhân dân Miến Điện, ngó lại cũng cùng thời gian này lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang làm gì cho đất nước và đồng bào Việt Nam trên con đường dân chủ hóa cho đất nước Việt Nam bất hạnh, chúng ta rất đau lòng chỉ thấy nhóm lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục làm toàn những việc phản dân chủ, phản nhân quyền, đi ngược trào lưu văn minh tiến bộ của thế giới:

Ngày 25/07/2011, Linh mục Nguyễn Văn Lý, người đã từng bị bỏ tù vì đã lên tiếng đòi quyền tự do dân chủ thực sự cho dân chúng Việt Nam, lại bị bắt trở lại nhà tù mặc cho ngài đang bị bệnh trầm trọng cần tiếp tục điều trị.
Ngày 02/08/2011, Luật Sư Cù Huy Hà Vũ, nhà đấu tranh ôn hòa cho nhân quyền và dân chủ nổi tiếng bị công an dàn dựng với 2 bao condom đã dùng để bắt giử ông tại Sài Gòn vào ngày 05/11/2010 và sau đó gán tội danh chống phá nhà nước Cộng Sản Việt Nam, tiếp tục bị kết án tù giam ông 7 năm trong một phiên tòa phúc thẩm ngụy tạo, chỉ vì ông ta đã anh dũng lên tiếng đòi hỏi quyền tự do dân chủ tại đất nước mình.

Ngày 05/06/2011 đến ngày 21/08/2011, trong 11 lần biểu tình chống lại hành động bá quyền của Trung Quốc tại Biển Đông đảng Cộng Sản Việt Nam liên tục đàn áp xách nhiễu đánh đập và bắt bớ nhiều người dân yêu nước trong đó có nhiều thanh niên trẻ tham gia biểu tình.

Ngảy 27/10/2011, trong khi ủng hộ dự luật biểu tình do chính Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng để nghị, tại Sài gòn, bà Bùi Thị Bích Hằng bị bắt cóc và bí mật đưa vào trại giam mà chính quyền Việt Nam gọi là trung tâm cải tạo nhân phẩm chỉ vì bà ta đã liên tục dũng cảm đứng ra tố cáo và chống lại hành động xâm lược Việt Nam của Trung Quốc.

Ngày 08/11/2011 và liên tục những ngày tiếp theo cho đến ngày17/01/2012, gia đình ông Huỳnh Ngọc Tuấn cùng hai con Huỳnh Thục Vy và Huỳnh Trọng Hiếu liên tục bị khủng bố, hành hung, hăm dọa, tước đoạt tài sản vì họ đã can đảm đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cho chính họ và cho toàn dân Việt.

Trước đó, ngày 18/3/2011, ba thanh niên nam nữ cùng độ tuổi đôi mươi như cô Huỳnh Thục Vy và Huỳnh Trọng Hiếu, đó là cô Đỗ Thị Minh Hạnh, anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và anh Đoàn Huy Chương, vì đã dũng cảm đứng ra giúp tranh đấu cho quyền lợi công nhân bị chủ nước ngoài bóc lột tồi tệ sức lao động mà đã bị toà án của đảng Cộng Sản tại Trà Vinh bỏ tủ khổ sai nhiều năm với tội danh mơ hồ: chống lại nhà nước của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Không chỉ những người đứng lên đòi hỏi cải tổ tự do dân chủ bị đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp bắt bỏ tù mà những người dân bình thường chỉ biết lo làm ăn cũng thưòng xuyên bị ức hiếp, cướp đoạt tài sản. Bằng chứng mới nhất là vụ chính quyền đảng Cộng Sản Việt Nam dùng bạo lực cưỡng đoạt tài sản và cơ sở sản xuất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn tại Tiên Lãng Hải Phòng hôm 05/01/2012, gây chấn động và phẫn nộ trong cả nước.

Lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không thể nào tiếp tục cố chấp, cai trị Việt Nam với một thể chế độc tài chuyên chính hà khắc mà phải học bài học của Miến Điện, nhanh chóng hồi tâm chuyển ý, vì tương lai sống còn của đất nước Việt Nam hãy nhanh chóng cải tổ chế độ chính trị và thực hiện dân chủ hóa như lãnh đạo Miến Điện đang làm cho đất nước họ.

Tương lai của đất nước và của chính đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ tùy thuộc vào hành động thức thời của lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời điểm này.

Ngày 20 tháng 01 năm 2012
Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Ngô Khoa Bá

Tuesday, November 29, 2011

DẤU HIỆU MỚI ĐẦY LẠC QUAN CHO TƯƠNG LAI CỦA TỔ QUỐC VIỆT NAM KHI THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TUYÊN BỐ: “HOÀNG SA , TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM”?

DẤU HIỆU MỚI ĐẦY LẠC QUAN CHO TƯƠNG LAI CỦA TỔ QUỐC VIỆT NAM KHI THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TUYÊN BỐ: “HOÀNG SA , TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM”?

Ngày 25.11.2011, lần đầu tiên cả nước được nghe những lời tuyên bố quan trọng của một lãnh đạo cao cấp, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, tại diễn đàn quốc hội về chủ quyền không thể chối cải của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực một phần năm 1956 và toàn phần năm 1974, và sau đó quần đảo Trường Sa (năm 1988).

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng chính thức tuyên bố:

“Chúng ta (Việt Nam) đã làm chủ thực sự hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ thế kỷ 17, khi (bất cứ đảo nào của) hai quần đảo này chưa thuộc bất cứ quốc gia nào (khác) ”

“Đối với Hoàng Sa thì năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng một vài quần đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của Chính Quyền Sài Gòn, Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa......
Đối với quần đảo Trường Sa, năm 1975 hải quân Việt Nam đã tiếp quản 5 đảo do quân đội Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý. Sau đó với chủ quyền của Việt Nam, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra Việt Nam còn xây dựng 15 nhà giàn để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này – vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta.Trung quốc đánh chiếm 7 bãi đá ngầm (từ năm 1988)”....

Hành động này của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là một hành động đột phá rất đặc biệt và ngoạn mục về tư duy của thành phần lãnh đạo cao cấp hiện nay của Việt Nam. Toàn dân hy vọng qua hành động này, nói lên sự quay trở lại của lãnh đạo Việt Nam với “chủ nghĩa dân tộc” chân chính, đối nghịch hoàn toàn loại tư tưởng rất sai lầm “phi quốc gia” của chủ nghĩa cộng sản mà Trung Quốc đại Hán từ bao năm qua đã tuyên truyền với các nước trong quỉ đạo “cộng sản” của họ. Trung Quốc đã lợi dụng một cách xảo quyệt và có hệ thống chiêu bài thế giới cộng sản đại đồng không tưởng nhằm sáp nhập và đồng hóa các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam giờ đây đã ý thức được dã tâm của bá quyền Trung Quốc, đã bắt đầu thực sự công khai đối đầu trước những hành động xâm lấn thô bạo của Trung Quốc đã xãy ra từ nhiều thâp niên qua trên Biển Đông, nhằm chiếm đoạt toàn bộ Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Việc làm này của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể nói lên được sự thay đổi cơ bản quan niệm chủ quyền và quyền lợi của quốc gia là tối thượng và vượt trên các chủ thuyết chính trị mơ hồ do thế lực bá quyền Trung Quốc đại Hán tuyên truyền cám dỗ mà hậu quả đã gây ra chết chóc tan thương không kể xiết cho đồng bào Việt Nam, gây thiệt hại khôn lường cho đất nước, đưa đến tình trạng Việt Nam bị lạc hậu và thua kém xa các nước khác trong khu vực Đông Nam Á.

Lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam nay đã thấu rõ rằng bọn bá quyền Trung quốc chính là kẻ thù và là mối nguy hại cho sự toàn vẹn lãnh thổ và sự tồn vinh của đất nước Việt Nam. Hành động can đảm của lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam khi công khai tố cáo Trung Quốc xâm lược và đang chiếm đóng lãnh thổ biển đảo của Việt Nam, bước đầu thay đổi tư duy của lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ thù chính của toàn dân Việt Nam nay đã được công khai xác định, đó chính là bọn bá quyền ngoại bang phương Bắc. Ngoài mặt họ luôn ngon ngọt rỉ tai tình đồng chí anh em “xã hôị chủ nghĩa” nhưng trong thâm tâm họ mang đầy dã tâm “đại Hán”, thôn tính lãnh thổ và đồng hóa dân Việt như ông cha họ đã liên tục cố gắng thực hiện.

Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu tuy quan trọng là nói lên được sự thay đổi tư duy về “đồng chí” của Đảng Cộng Sản việt Nam về sự toàn vẹn lãnh thổ. Dù theo quan điểm chính trị nào, mọi người đều phải phục vụ cho quyền lợi của tổ quốc, cho đồng bào, cho sự toàn vẹn lãnh thổ. Quan điểm chính trị phải đặt quyền lợi của đất nước, tình cảm dân tộc, tình yêu đồng bào cùng tổ tiên trên tình đồng chí xa vời, ảo tưởng mà thế lực bành trướng ngoại bạng (Trung Quốc) tuyên truyền áp đặt trong hơn nửa thế kỷ qua.
Lúc này hơn lúc nào hết, lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam cần phải có hùng tâm đi thêm một bước quan trọng hơn và có tính cách quyết định cho tương lai của đất nước, đó là nhanh chóng từ bỏ lợi ích đảng phái, lợi ích cá nhân, và đặt lợi ích dân tộc lên trên; chấp nhận những khác biệt quan điểm, chấp nhận quyền bình đẳng của tất cả công dân Việt Nam trong công cuộc điều hành đất nước, tôn trọng và phát huy các quyền căn bản của con người. Nhận thức rõ kẻ thù chính của tổ quốc là bọn bành trướng bá quyền ngoại bang chứ không phải là người Việt Nam có quan điểm khác biệt. Người cộng sản phải thấm nhuần lời dạy của tổ tiên: “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương, dân cùng một nước phải thương nhau cùng”, để cư xử có tình lý, có nhân cách.

Người có đủ quyền hành và trách nhiệm trước toàn dân thực hiện một bước đi rất quan trọng kế tiếp này để sớm khai phóng cả nước và tạo điều kiện cho đất nước nhanh chóng phục hồi là Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ông Nguyễn Phú Trọng. Chỉ có hành động của ông Nguyễn Phú Trọng, chỉ có bước đột phá của ông, thì những việc làm sai trái , hành động chuyên quyền của thuộc cấp của đảng cộng sản trong tất cả các cơ quan từ trung ương đến địa phương mới nhanh chóng chấm dứt, các quyền tự do căn bản của người dân mới được phục hồi. Có như vậy toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước sẽ cùng nhau góp sức nhanh chóng xây dựng lại đất nước, bảo vệ tổ quốc chống lại ngoại xâm.

ĐỐI NGOẠI: Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã can đảm bước một bước quan trọng, khẳng định rỏ ràng chủ quyền và tố cáo trước công luận thế giới hành động xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
ĐỐI NỘI: Cả nước đang mong chờ Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ông Nguyễn Phú Trọng, dũng cảm bước một bước quan trọng hơn, khẳng định trước toàn dân chấm dứt độc tài chuyên chính, tái lập tất cả quyền tự do dân chủ, chấp nhận và tôn trọng đối lập.

Có như vậy, toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước sẽ thật sự đồng tâm hiệp lực, nhanh chóng xây dựng lại đất nuớc và bảo vệ tổ quốc Việt Nam yêu quí.

Ngày 27/11/2011
Lê Quang Long, Ngô Khoa Bá, Nguyễn Hùng
Email: hungthuoc@yahoo.com, savevietnam09@gmail.com

Monday, November 21, 2011

BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG OBAMA TRƯỚC LƯỠNG VIỆN QUỐC HỘI ÚC NGÀY 17/11/2011

BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG OBAMA TRƯỚC LƯỠNG VIỆN QUỐC HỘI ÚC NGÀY 17/11/2011, CÓ GÌ ĐẶC BIỆT VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM.

Trong bài diễn văn Tổng Thống Hoa Kỳ đọc trước lưỡng viện quốc hội Úc ngày 17/11/2011*, tuy Ông Obama đã chú tâm đến mối tình bằng hữu giữa Úc và Mỹ, nhưng Ông đã dành một phần rất quan trọng của bài diễn văn nêu lên một số vấn đề liên quan đến tình hình an ninh chung của khu vực Biển Đông, Á Châu và mối liên đới chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và quyền tư do dân chủ. Riêng vấn đề phát triển kinh tế kết hợp với các quyền tự do dân chủ của người dân, Ông Obama phát biểu như sau:

“........
khi chúng ta phát triển kinh tế, chúng ta cũng cần ghi nhớ sư liên hệ mật thiết giữa sự phát triển và việc điều hành hiệu quả của nhà nước – chấp hành các qui định của pháp luật, sự minh bạch của các cấp của chính quyền và sự bình đẳng của cơ quan tư pháp.
Vì lịch sử đã chứng minh rằng, qua quá trình lâu dài, dân chủ và phát triển kinh tế luôn cùng nhau đồng hành. Thịnh vượng mà không có tự do dân chủ thì chỉ là một hình thức khác của sự nghèo khó.

Điều này mang tôi tới một lãnh vực cuối cùng mà chúng ta đang hướng tới - sự hỗ trợ của chúng ta cho các quyền căn bản của con người.

Mỗi quốc gia phải tạo ra con đường đi tới riêng cho chính mình.

Nhưng cũng có một số quyền của con người được coi là phổ quát, trong số này có thể kể quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do tôn giáo, và quyền tự do chọn những người lãnh đạo đất nước của mình.

Những quyền này không phải quyền của người Mỹ, quyền của người Úc, quyền của người Tây Phương. Những quyền này là quyền chung của con người, nhân quyền.

Những quyền này khuấy động đến lương tâm của con người, vì chúng ta đã thấy được các thể chế dân chủ đã thành công ở đây tại Châu Á.

Những thể chế khác đã được thử áp dụng trước đây- phát xít, cộng sản, độc tài cá nhân, và độc tài phe nhóm. Và những thể chế này đã thất bại vì một lý do đơn giản: các thể chế này đã quên rằng nguồn gốc tối thượng của quyền lực hợp pháp là ở lòng dân.

Đúng, dân chủ có thể rối rắm và thô bạo,và tôi biết rằng tất cả quí vị tại đây đã tận dụng nhuần nhuyển trong những buổi chất vấn và tranh luận (tại lưỡng viện Quốc Hội Úc).

Dù cho chúng ta có nhiều khác biệt tư tưởng giữa các đảng phái, chúng ta đều biết rỏ rằng thể chế dân chủ chúng ta được thụ hưởng là một hình thể chính quyền tuyệt vời nhất được nhân loại biết đến.

Do vậy, là hai quốc gia có thể chế dân chủ tuyệt vời (Úc, Mỹ), chúng ta cần lên tiếng bảo vệ cho những quyền tự do này một khi những quyền này bị hăm dọa.
Chúng ta cùng đồng hành với các các quốc gia vừa bước vào thể chế dân chủ, như Indonesia, giúp họ củng cố các cấp trong chính quyền mà từ đó xây dựng một nhà nước tốt.

Chúng ta khuyến khích một nhà nước mở, bởi vì các quyền dân chủ có được hay không sẽ tùy thuộc sự thông tin đầy đủ và sự tham gia tích cực của người dân.
Chúng ta giúp củng cố các tổ chức dân sự, vì các tổ chức này giao quyền cho dân để kiểm soát việc làm và trách nhiệm của chính quyền.

Và chúng ta cổ võ nhân quyền cho tất cả mọi người - kể cả phụ nữ, dân tộc thiểu số và văn hóa địa phương– vì khi xã hội nào tiếp thu được những tiềm năng của người dân, xã hội đó sẽ được thành công hơn, sẽ được thịnh vượng hơn và công bình hơn.
Những nguyên tắc này đã hướng dẫn chúng tôi tiếp cận được với Miến Điện, qua sự kết hợp cấm vận và thương thảo.

Hôm nay, bà Aung San Suu Kyi được hoàn toàn tự do, không còn bị quản thúc tại gia. Một số tù nhân chính trị được trả tự do và chính quyền đã bắt đầu thương thảo với các thanh phần đối lập.

Tuy vậy, các vi phạm nhân quyền vẩn còn tồn tại. Do đó chúng tôi sẽ tiếp tục nói rõ về những bước mà chính quyền Miến Điện phải thực hiện để cải thiện bang giao với Mỹ.
Đây là con đường tương lai mà chúng tôi theo đuổi trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương – an ninh, thịnh vượng và phẩm giá nhân quyền cho tất cả người dân trong khu vực. Đó là những điều mà chúng tôi đứng ra đấu tranh. Đó là bản chất của người Mỹ chúng tôi.

Đó là những mục tiêu mà chúng tôi sẽ theo đuổi, cùng với sự tham gia của các nước đồng minh và bạn bè, và với mọi sức lực cơ bản của người Mỹ.
Do đó không còn nghi ngờ gì nữa: tại khu vực Á Châu Thái Bình Dương trong thế kỷ thứ 21, nước Mỹ sẽ toàn tâm toàn lực nhập cuộc.

Tuy nhiên, trong giai đoạn có những thay đổi to lớn và đầy bất định này,tuơng lai có vẻ dường như không chắc chắn. Xuyên qua một đại dương to lớn, chúng ta không thể lường trước được khó khăn hay trở ngại gì đang đón chờ ở nơi chân trời phía trước. Nhưng nếu mà vùng đất to lớn này và dân chúng tại đây có thể dạy chúng ta điều gì, thì đó là lòng quyết tâm đấu tranh cho quyền tự do dân chủ và sự tiến bộ mà chúng ta không có lý gì để nghi ngờ.

Đó lý do tại sao phụ nữ của nước Úc này đã đứng lên đòi hỏi chính quyền phải lắng nghe tiếng nói của họ, đã đưa đến nước Úc là quốc gia đầu tiên cho phụ nữ có quyền bầu cử ứng cử vào quốc hội và, đã có phụ nữ trở thành Thủ Tướng.
Đó là lý do tại sao dân chúng xuống đường biểu tình - từ Đề Li, Seoul, từ Manila đến Jakarta - để loại bỏ chế độ thực dân và độc tài và từ đó xây dựng nên những nước dân chủ to lớn nhất của thế giới.

Đó lý do tại sao có một quân nhân Nam Triều Tiên đứng canh tại vùng phi quân sự Nam Bắc Triều Tiên để bảo vệ người dân miền Nam, và tại sao có một thanh niên Bắc Triều Tiên dám liều mạng sống trốn qua biên giới. Tại sao những người lính đội nón xanh bảo vệ hòa bình cho một nước mới thành lập. Và tại sao những phụ nữ đã gan dạ vào các nhà chứa cứu thoát các em gái trẻ thoát khỏi cảnh nô lệ thời nay, một thảm cảnh phải cần bị tiêu diệt.

Đó lý do tại sao những thanh niên mặc áo quần bình thường, vì hòa bình, đã đối đầu với hành hung và súng đạn, và tại sao hằng ngày - từ thành phố to lớn đến những làng mạc hẻo lánh, trong số những hành động anh dũng mà thế giới chúng ta có lẽ chưa bao giớ mục kích – như một học sinh đăng tin vào một blog; một người dân ký tên vào một tuyên cáo, một người đấu tranh không chịu khuất phục, bị quản thúc tại nhà, để đòi các quyền tự do dân chủ tương tự như những gì mà chúng ta hiện đang thụ hưởng.
Thế giới luôn ngưởng mộ và sẽ không quên những anh chị này.

Dòng lịch sử có thể ngưng và chảy, nhưng với thời gian trôi qua, các dòng lịch sử di chuyến một cách quả quyết, quyết liệt, theo một hướng duy nhất.

Lịch sử đứng về phía của các xã hội tự do, chính quyền tự do, kinh tế tự do, con người tự do. Và tương lai thuộc về những con người gan dạ quyết tâm đứng vững và đấu tranh cho những lý tưởng này, trong khu vực này và trên toàn thế giới.

Đây là câu chuyện của sự liên minh mà chúng ta ăn mừng hôm nay. Đây là tố chất của lãnh đạo mới của Mỹ. Đó là là tố chất của mối quan hệ của chúng ta. Và đây là công tác mà chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện, cho sự an ninh, sự thịnh vượng, và phẩm giá của tất cả mọi người trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.

Xin Thượng Đế chúc phúc cho nước Úc, Thượng Đế chúc phúc cho nướcMỹ và Thượng Đế chúc phúc cho tình bằng hữu giữa hai dân tộc của chúng ta.

Cám ơn quí vị rất nhiều. “


Qua bài diễn văn của Tổng Thống Obama, là một nước trong vùng Á châu Thái bình Dương, Việt Nam ( cùng với Trung quốc, Bắc Hàn) sẽ được chính quyền và dân chúng Mỹ đặc biệt quan tâm. Nhà nước Việt Nam hiện nay không còn có thể vịn vào bất cứ lý do gì để bám víu vào thể chế độc đảng chuyên chính lỗi thời mà phải nhanh chóng thay đổi thành một thể chế thực sự tự do dân chủ để kịp thời hội nhập cùng các nước dân chủ tự do trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.

Tổng Thống Obama rất đúng khi tuyên bố:

- Lịch sử đứng về phía của các xã hội tự do, chính quyền tự do, kinh tế tự do, con người tự do.
- Lịch sử chứng minh rằng, qua quá trình lâu dài, dân chủ và phát triển kinh tế cùng nhau đồng hành. Và thịnh vượng mà không có tự do thì chỉ là một hình thức khác của sự nghèo khó.


Hiện trạng của Việt Nam là minh chứng cho những lời phát biểu của Tổng Thống Obama.
Lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam - Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính Trị - phải noi gương các nước trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương, nhanh chóng trả lại quyền tự do dân chủ cho toàn dân để Việt Nam được thực sự phát triển toàn diện.

Ngày 20 tháng 11 năm 2011
Nguyễn Hùng, Ngô Khoa Bá, Lê Quang Long
Email liên lạc: hungthuoc@yahoo.com , savevietnam09@gmail.com

* http://www.smh.com.au/national/text-of-obamas-speech-to-parliament-20111117-1nkcw.html#ixzz1dw9e4A00